Trương Định- Người con ưu tú của quê hương núi Ấn – sông Trà

0
1967

Trải qua hơn 6 thế kỷ khai mở và xây dựng, vùng đất “Địa linh, nhân kiệt” Quảng Ngãi đã sản sinh nhiều nhân vật kiệt xuất, góp phần làm rạng rỡ quê hương, đóng góp tích cực vào sự nghiệp chung cả nước. Trong loạt bài này, chúng tôi sẽ giới thiệu cùng bạn đọc tiểu sử và hành trạng của anh hùng dân tộc Trương Định – người con ưu tú của quê hương “núi Ấn, sông Trà”.

Trương Định còn có tên là Trương Công Định. Ông sinh năm 1820 tại xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Trương Định sống ở quê hương Quảng Ngãi, mãi đến năm 24 tuổi mới theo cha là Trương Cầm, người được phong chức Hữu thủy vệ úy lãnh binh tỉnh Gia Định vào Nam. Tại đây, ông lập gia đình với bà Lê Thị Thưởng con gái của một nhà hào phú ở Tân An, Định Tường. Sau khi lập gia đình, ông ở luôn tại quê vợ.

Năm 1850, hưởng ứng chính sách khai hoang của triều đình, Trương Định đứng ra chiêu mộ khoảng 500 dân nghèo khai hoang, lập đồn điền ở Gia Thuận (nay thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang). Với công lao ấy, ông được triều đình Huế phong chức Quản cơ, hàm Lục phẩm, nên người đương thời thường gọi ông là Quản Định. Điều đáng chú ý là trong đồn điền của Trương Định thực chất là một hình thức khẩn hoang và phòng thủ theo lối “động vi binh, tịnh vi dân” trong điều kiện riêng của Nam Kỳ lúc bấy giờ.

Năm 1859, khi Pháp đưa quân chiếm thành Gia Định, Trương Định đem nghĩa binh lên đóng ở Thuận Kiều, phối hợp hợp với quân Triều đình để ngăn chặn giặc. Trong quá trình lãnh đạo nghĩa quân chống Pháp, Trương Định đã đánh thắng giặc Pháp ở mặt trận Thị Nghè, Cây Mai… Năm 1860, dưới quyền của Tổng thống quân vụ Nguyễn Tri Phương, Trương Định tham gia giữ đồn Kỳ Hoà, được triều đình phong chức Phó lãnh binh. Sau khi đồn Kỳ Hoà thất thủ, ông cùng nghĩa binh rút về Gò Công xây dựng căn cứ kháng chiến chống Pháp. Trương Định đã tổ chức nhiều trận phục kích địch ở Gò Công, Tân An, Mỹ Tho, Chợ Lớn làm cho Pháp bị tổn thất lực lượng rất nhiều.

Sau khi ký hoà ước Nhâm Tuất (5/6/1862), triều đình Huế cắt 03 tỉnh miền Đông Nam Kỳ giao cho Pháp. Để gọi là “nghiêm chỉnh thi hành các điều ước” và mong Pháp trả lại tỉnh Vĩnh Long đã mất (25/3/1862), triều đình hạ lệnh cho Trương Định bãi binh và nhận chức lãnh binh An Hà (An Giang, Hà Tiên). Trong khi Trương Định còn đắn đo suy nghĩ sau khi nhận chỉ dụ của triều đình thì những người ứng nghĩa biết tin đã vội vàng kéo đến bày tỏ nguyện vọng yêu cầu ông ở lại lãnh đạo kháng chiến. Cảm động trước tấm lòng của nhân dân, đồng thời nhận rõ hiểm họa đe dọa sự tồn vong của đất nước, Trương Định đã chấp nhận ở lại Gò Công, nhận chức Bình Tây Đại Nguyên Soái kiên quyết kháng chiến đến cùng. Ông từng tuyên bố: “Chúng tôi sẽ lấy lau làm cờ, chặt tầm vông làm vũ khí. Dứt khoát không bao giờ ngừng chống bọn giặc cướp nước”. Như vậy là cuộc kháng chiến của Trương Định từ lúc này chuyển sang một giai đoạn mới, thoát ly khỏi triều đình, dựa vào nhân dân và cùng với nhân dân chống Pháp.

Để củng cố lực lượng kháng chiến, Trương Định cổ động nhân dân đào hào, đắp lũy, bố trí trận địa, phòng giữ các mặt hiểm yếu và cử các sĩ phu có tâm huyết vào các chức vụ quan trọng ở nhiều nơi, đồng thời ông cho phát đi bài hịch lời lẽ thắm thiết kêu gọi mọi người đóng góp nhân tài vật lực tham gia đánh Pháp.

Chỉ một thời gian ngắn, lực lượng của Trương Định phát triển rất nhanh, thu hút và liên kết chặt chẽ với các nhóm kháng chiến, các sĩ phu, văn thân yêu nước, trong đó có nhà thơ mù Nguyễn Đình Chiểu. Ngày 16/2/1862, Trương Định phát lệnh tổng công kích, phản công mạnh mẽ quân xâm lược trên khắp các mặt trận, thu nhiều thắng lợi, đặc biệt là trận Sông Tra mở màn, và các trận ở Qui Sơn, Rạch Lá, Cửa Khẩu, Gò Xoài, Đồng Sơn (Gia Định). Ngoài ra, nghĩa quân còn tiến công địch ở nhiều đồn trại khắp Biên Hòa, Định Tường, tập kích pháo thuyền Alarme, thuyền Lorcha… suốt từ 18 đến 28/12/1862, khiến quân Pháp rơi vào thế bị động, liên tục bị uy hiếp.

Trước tình hình này, Bonard một mặt đệ thư về Pháp xin viện binh, một mặt thúc giục Phan Thanh Giản và quan tỉnh Vĩnh Long ép Trương Định bãi binh, giao nộp vũ khí. Thế nhưng lập trường của Trương Định không thay đổi, ý chí của Trương Định không lung lay.

Thất vọng trong âm mưu chiêu dụ và lung lạc Trương Định, lại được nhận thêm viện binh và nhân lúc quân Triều đình án binh bất động, ngày 13/2/1863 quân Pháp tập trung quân mở cuộc tấn công lớn vào căn cứ của Trương Định với sự tham gia của 1.200 quân, 8 khẩu đại bác và chiến hạm Européen. Cuộc chiến diễn ra vô cùng ác liệt. Trương Định buộc phải rút quân về Biên Hoà lập căn cứ ở Lý Nhơn và đưa một bộ phận nghĩa quân về Thủ Dầu Một – Tây Ninh để tiếp tục chiến đấu.

Vào giữa năm 1864, Trương Định chuẩn bị một đợt tấn công mới nhằm đánh chiếm lại Tân Hòa. Tiếc thay, kế hoạch lớn đó chưa thực hiện được thì xảy ra việc quân Pháp do tên phản bội Huỳnh Công Tấn dẫn đường đánh úp nghĩa quân đêm 19 rạng ngày 20/8/1864. Mặc dù quân ít, lại bị đánh bất ngờ Trương Định và các nghĩa quân vẫn chiến đấu dũng cảm, chống trả mãnh liệt. Rạng sáng ngày 20/8/1864 trong khi đang chiến đấu thì Trương Định bị trọng thương. Biết không thoát khỏi tay giặc, ông rút gươm tự sát để bảo toàn khí tiết anh hùng khi tuổi đời mới 44 tuổi.

Trương Định (1820 – 1864)

Trương Định sinh năm Canh Thìn (1820) tại làng Tư Cung Nam, phủ Bình Sơn, nay là xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Để tỏ lòng kính mến và quý trọng, nhân dân và sĩ phu Nam Kỳ thường gọi ông là Trương Công Định.

Cuộc khởi nghĩa chiến đấu chống giặc Pháp xâm lược của Trương Định chỉ trong thời gian ngắn từ năm 1859 đến 1864 nhưng đã trở thành điểm son ngời sáng trong lịch sử dựng nước, giữ nước và chống ngoại xâm của dân tộc ta. Và, Trương Định đã trở thành người thủ lĩnh vĩ đại của nghĩa quân chống giặc Pháp xâm lược.

Đối với nhân dân, đặc biệt là nhân dân Gò Công và miền Nam xem Trương Định là người anh hùng dân tộc. Qua bao đời nay, nhân dân Gò Công đã xây dựng, tu sửa, tôn tạo mộ, đền thờ và dựng tượng Trương Định. Hàng năm, tại Gò Công long trọng tổ chức lễ cúng tế, tưởng nhớ Trương Định. Lễ hội tưởng niệm ông diễn ra tại đây các ngày 19 và 20 tháng 8 dương lịch hàng năm, thu hút đông đảo nhân dân khắp Nam Kỳ lục tỉnh về chiêm bái người Anh hùng dân tộc. Mục đích của lễ hội Trương Định là hướng về cội nguồn, tưởng nhớ công đức của tiền nhân đối với dân tộc và đất nước. Hằng năm, công chúng đến với lễ hội với tấm lòng ngưỡng mộ anh hùng Trương Định và nhận thức sâu sắc thêm về truyền thống yêu nước, tinh thần chống ngoại xâm của dân tộc ta. Hình tượng Trương Định, người thủ lĩnh vĩ đại của nghĩa quân chống Pháp sống mãi với non sông, đất nước.

Tấm gương anh dũng, một lòng vì nước, vì dân của Anh hùng dân tộc Trương Định là trang sử hào hùng mà lớp lớp thế hệ người Việt chúng ta, nhất là người dân trên mảnh đất Gò Công khắc nghi trong tâm khảm.

Bình Tây Đại Nguyên Soái Trương Định dẫu sinh ra ở Quảng Ngãi, song với người dân Tiền Giang, ông cũng là người con của mảnh đất có dòng sông Tiền hiền hòa. Ở cả hai miền quê Quảng Ngãi và Tiền Giang, để tưởng nhớ công đức của ông, cứ đến ngày 19 và 20 tháng 8 (dương lịch) hằng năm, chính quyền địa phương và người dân tổ chức trọng thể lễ giỗ kỷ niệm ngày ông tuẫn tiết. Đông đảo người dân nơi ông sinh ra (ở xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh) đến đền thờ thắp hương tưởng nhớ vị anh hùng kiên trung, bất khuất. Và, ở Gò Công, lễ giỗ của ông nghi ngút khói hương với rất nhiều thế hệ người dân tìm về cội nguồn.

Nam Phương